Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương
(Đoạn Trường Tân Thanh)
Gửi thầy Đỗ Hữu Nghiêm, cựu JECU
Niên
khóa 1962-63, tôi học năm cuối của chương trình Cử Nhân Giáo khoa Văn
Chương Pháp tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Còn nhớ cùng lớp tôi
lúc ấy có nhạc sĩ Hùng Lân, người hiền lành, dễ mến, như một thầy tu,
thỉnh thoảng nổi hứng bất tử ngồi lén ghi nốt nhạc ngay tại chỗ, trong
lúc thầy giảng bài. Có bà sơ Phạm Thị Nhâm, mà tôi thường hỏi mượn cua
mỗi lần trốn học đi chơi, sau trở thành hiệu trưởng trường Nữ Thánh Tâm
Nha Trang, và đã nhận ra tôi ngay khi vừa thấy tôi lò dò đến trường xin
dạy. Có Đặng Tiến, da vàng ủng như người bị sốt rét kinh niên, tóc bờm
xờm không chải, nói tiếng Pháp đặc giọng Quảng Nam, trước 75 ở phòng tùy
viên Tòa đại sứ VNCH tại Thụy Sĩ, đào ngũ qua Pháp sống cho đến bây
giờ, chuyên viết báo nịnh hót Cộng sản và phê bình gia văn chương có
hạng. Có Đại úy Bộ Binh Ngô Văn Minh, sau lên chức Đại tá Tham mưu
trưỏng Quân Đoàn III, Biên Hòa. Có Wang Seng, cô bạn Tàu, Bùi Thế Cần,
Lương Thị Nga, Thái Thị Nhân, Lê Thị Bích, Thái Tuyết Lê, Lê Thị Ngọc
Loan, và Irène Công Huyền Tôn Nữ Phụng Tiên -đồng hương
Nha Trang và đồng môn trong lớp Latin của M. Le Menn- tất cả đang ở
Pháp. Có Nguyễn Nương Minh Châu, sau thành vợ Bác sĩ Đinh Hà, cả hai là
cựu JECU (viết tắt của Jeunes Etudiants Catholiques Universitaires,
Thanh Sinh Công Đại Học), đang sống rất thầm lặng tại một nơi nào trên
đất Mỹ.
Đầu
niên học, từ lầu ba, tôi và Bùi Thế Cần (học giỏi nhất lớp, con của dân
biểu Bùi Tuân, Huế) hay xuống lầu một, vào giảng đường Dự Bị, để tìm
người quen giữa đám nai vàng ngơ ngác, hay đúng hơn tuyển mộ tân binh
cho JECU. Lúc ấy, Cần là trưởng JECU Liên Trường, Nguyễn Ánh Tuyết (con
trai), thư ký, còn tôi, trưởng Nhóm Văn Khoa Pháp. Một hôm, tôi thấy
đứng trước cửa giảng đường một sĩ quan mang ba hoa mai bạc, đầu đội
béret đỏ, tay cầm một xấp cua. Ông dáng cao gầy, vẻ tươi cười. Gặp ông,
tôi khẽ gật đầu chào, và ông lịch sự chào lại. Có người cho biết, đó là
Đại tá Cao Văn Viên. Mấy năm
sau, ông lên tướng, trở thành xếp quá lớn của tôi, và lấy bằng Cử Nhân
Pháp. Có kẻ xấu mồm nói, ông nhờ người đi học và đi thi thay cho ông.
Tôi không tin. Vì ở Văn khoa Pháp, thầy cô không phát cua, phải vào lớp
ghi chép hoặc mượn ai, và kỷ luật thi cử lúc bấy giờ khá gắt gao, ít
sinh viên, lại phải thi oral, thầy trò biết mặt nhau hết, rất khó gian
lận.
Vào
trong giảng đường, Cần và tôi ngồi lẫn lộn với đám tân sinh viên, nghe
cha Cras giảng về Socrate và Hégel hay thầy Kiết dịch tiếng Pháp ra
tiếng Việt mà phát mệt trở lại. Một hôm, chúng tôi thấy Yvonne Lan
Hương, cô bạn trong JECU, học dưới một lớp, đang ngồi trò chuyện với một
cô. Bèn sà đến. Yvonne giới thiệu, đây Thủy, Ngô Đình Lệ Thủy. Lần đầu gặp cô, chúng tôi không nói gì hơn ngoài vài câu xã giao thông lệ.
Về
sau, khi Lệ Thủy gia nhập JECU Văn khoa Pháp, tôi tiếp xúc với cô
thường hơn, nhưng thường chỉ để thông báo ngày và chương trình họp của
Hội. Cô có dáng thanh thanh, vẻ thùy mị, thông minh, ít nói, ít cười,
đôi mắt linh hoạt, khuôn mặt hơi vuông, cằm hơi nhọn, tóc dày, cài
bandeau trắng hoặc đỏ. Chúng tôi nói tiếng Pháp với nhau, cho nên bây
giờ tôi không biết cô nói tiếng Việt ra sao, giọng miền nào. Đó là một
điều mà sau gần nửa thế kỷ, già đi, nghĩ lại, tôi thấy “dị hợm”, mắc cỡ,
mặc dù do thói quen, giống như các em Việt Nam hiện tại ở Mỹ nói chuyện
bằng Anh ngữ, chứ chẳng vì “snobisme”, thời thượng, lòe thiên hạ. Lệ
Thủy thường mặc váy đỏ, áo sơ mi trắng đi học, đôi khi cả đồng phục
Thanh Nữ Cộng Hòa. Nói chung, cô khá đẹp, nhưng không lồ lộ, sexy như
Irène, không tươi lộng lẫy như Lương Thị Nga. Một sắc đẹp trang nhã, đài
các. Tôi để ý, cô ở đâu là luôn luôn có hai anh chàng gorilles (hộ vệ),
giả dạng sinh viên, ngồi phía dưới, cách cô một dãy bàn, nhìn chòng
chọc vào mọi người.
JECU
Văn Khoa Pháp lâu lâu ra một tờ Bản Tin (Bulletin), bằng tiếng Pháp, do
Bùi Thế Cần, Ánh Tuyết, Minh Châu và tôi viết gần hết, vì không ai gửi
bài. Trong đó, thỉnh thoảng có đăng một vài bài thơ tình lẩm cẩm của
tôi, không đối tượng, chỉ là gửi gió cho mây ngàn bay, mà bây giờ tôi
còn nhớ lõm bõm vài câu:
Je veux tremper mes lèvres
Dans l' eau pure de ton coeur
Et émerger frissonnant
D' une aube de lumière...
(Anh muốn nhúng môi anh
Vào nước tinh tuyền tim em
Và bừng lên run rẩy
Dưới ánh sáng bình minh…)
hay những câu dịch của John Keats, hoặc Tennyson, đại khái:
Ce n' est pas toi que je regrette
C' est le rêve par toi brisé
(Không phải em mà anh tiếc nuối
Mà giấc mơ vì em vỡ tan)
Lệ
Thủy đọc xong, mày hơi nhíu, bảo tôi, nghiêm trang như một cô giáo la
rầy học trò: "Je n' savais pas que tu es si romantique. Les poèmes
d’amour, ça c’est vraiment beau, mais ils désespèrent aussi" (tôi không
biết anh lãng mạn dữ thế. Những bài thơ tình hay thật, nhưng cũng làm
người ta tuyệt vọng). Tôi khoát tay, ấp úng chối tội như ăn vụng bị bắt
quả tang: “Un peu, oui, j’ n’ les ai faits que pour m'amuser. Rien de
sérieux!” (Chút chút, đúng, tôi chỉ làm để chơi vui thôi mà. Không có gì
quan trọng!).
Lệ
Thủy không bao giờ đến CLB Phục Hưng để họp, ngoại trừ một lần, tôi
nhớ, tham dự thánh lễ đầu tháng cho toàn JECU do cha Pineau cử hành, rồi
về ngay sau lễ. Chúng tôi chỉ gặp nhau tại giảng đường Propédeutique,
trong giờ nghỉ giải lao, năm sáu đứa ngồi cuối phòng, có khi tại bàn của
Lệ Thủy, thảo luận, hay trao đổi vài thông tin cần thiết. Hai anh chàng
gorilles, chắc đã được báo trước, đứng xa xa hút thuốc, để chúng tôi
yên.
Một
ngày thứ bảy, JECU Liên Hội tổ chức đi thăm trại cùi và nhà thương điên
Chợ Quán. Mỗi người góp mười đồng, làm chi phí lặt vặt, và ăn trưa. Số
tiền không nhỏ, hơn ba tô phở vào thời ấy, đối với ngân quỹ khiêm tốn
của sinh viên còn lãnh lương cha mẹ. Lệ Thủy đưa cho tôi một trăm đồng,
trước mặt Cần, nói là tiền của “maman cho Hội”, nhưng “tiếc là Thủy bận
việc bên Thanh Nữ Cộng Hòa, không đi với tụi toa được”. Tôi nhận tiền, cám ơn, rồi nói nhỏ vào tai Cần: “Như thế cũng hay. Có Thủy tham gia, hai gorilles phải theo, phiền phức, mà trông ngứa mắt lắm!”
Hôm
ấy, tất cả chúng tôi, khoảng bốn chục người, chia nhau lên hai xe buýt,
tuyến đường Chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo. Hoặc tự túc, có xe hơi riêng,
như hai chị em Anh Thư, Hạp Thư, hay “đại ca” Dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ. Tổ
y tế gồm các sinh viên Y khoa, trang bị ống nghe và túi cứu thương, do
Đinh Hà hướng dẫn, làm công tác khám bệnh, phát thuốc. Tổ ăn uống do
Rosa điều động. Tổ văn nghệ gồm một cây guitare và một số ca sĩ mầm non,
do các cô bên Dược phụ trách, trong số có Yvette Trương Tấn Trung, đang
ở Pháp. Bùi Thế Cần làm tổng tư lệnh, Nguyễn Ánh Tuyết phụ tá.
Đầu
tiên chúng tôi thăm nhà thương điên. Toàn đàn ông. Vài ông, tóc dài rũ
rượi, biểu diễn nhiều màn rất… điên, như xé áo xé quần, rú lên những
tràng cười kinh dị, khiến các cô sợ quá, mặt mày tái mét. Nhưng đa số
hiền lành đứng nhìn chúng tôi đi qua, vẻ thẫn thờ, ngây dại. Tôi cười,
chào, hỏi thăm, họ vẫn vô cảm. Rồi cả toán chuyển sang thăm trại cùi.
Thói quen nghề nghiệp, Đinh Hà phát sẵn mấy chai alcool, để tùy nghi.
Bệnh nhân rất đông, sống theo khu, gồm cả con nít, trông rất tội nghiệp.
Tôi không lạ với cảnh này, vì gần xóm tôi ở Nha Trang, khu Lạc Thiện,
cũng có một trại cùi do các tu
sĩ dòng Franciscains sáng lập và đảm nhiệm, nhưng lúc ấy tôi còn nhỏ,
chỉ là một khán giả bàng quan, đi ngang tò mò đứng nhìn vào qua những
vòng rào kẽm gai dày. Bây giờ, lần đầu tiên có dịp thấy tận mắt những
thân hình gầy còm, lở lói, những bàn tay, bàn chân co quắp, hoặc mất
ngón, những cặp mắt mờ đục, mù lòa. Và lòng dâng tràn một niềm cảm
thương vô hạn. Tổ y tế bắt đầu khám, phát thuốc cho những bệnh nhân cùi
bị cảm cúm, đau đầu, sổ mũi, do trưởng trại giới thiệu, yêu cầu. Các cô
tập họp những cháu bé lại, phát kẹo, tập chúng hát theo nhịp đàn guitare
của Nguyễn Ánh Tuyết, vỗ tay, rồi cười lớn tiếng với nhau. Vài cháu
chưa bị nhiễm bệnh, mặt mày trông rất sáng sủa, thông minh, phải theo
sống chung với cha mẹ.
Tháng
sáu 1963, mãn trường. Bùi Thế Cần, Nguyễn Nương Minh Châu đậu Cử Nhân
liền một khi. Tôi rớt oral chứng chỉ Văn chương Quốc âm, bắt buộc cho
sinh viên Văn khoa Pháp-Anh, vì trong buổi thi vấn đáp với giáo sư Vương
Hồng Sển tôi không nhớ Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị ông nào theo Tây,
ông nào chống Tây, và đem thơ ông này cắm vào cằm ông kia. Với giáo sư
Bửu Cầm, kết quả còn tệ hơn, tôi không biết chiết tự bốn câu thơ chữ Nôm
của thi sĩ Tuy Lý Vương, đứng chịu chết như Từ Hải, nhìn thầy cười cầu
tài. Phải thi lại hai môn vấn đáp này. Còn những nàng tiên nga “trong
đám xuân xanh ấy”, mà tôi đã kể tên ở trên, chưa có ai “theo chồng bỏ
cuộc chơi”, như trong thơ Hàn Mặc Tử, nhưng đã lần lượt đi du học Pháp
một cách lặng lẽ từ năm thứ hai, thứ ba. Cần ra Huế, tôi về quê Nha
Trang, dạy tại Collège français môn Việt văn cũng nhờ cái chứng chỉ Văn
chương Quốc âm khó ác ôn ấy.
Không bao giờ tôi gặp lại Lệ Thủy, đã biến mất, từ ngày cô tặng JECU chúng tôi một trăm đồng. Tôi biết cô cũng đã đậu Propédeutique, qua bản niêm yết dán trước của trường, với tên chính thức, đầy đủ: Anne-Véronique Ngô Đình Lệ Thủy,
sinh năm 1945. Chiến sự mỗi ngày leo thang. Khủng hoảng chính trị gia
tăng. Sinh viên và Phật tử xuống đường hàng ngày. Cảnh sát dàn chào với
dùi cui, lựu đạn cay. Những tờ báo chui chửi thậm tệ chế độ. Làm tôi rất
quan tâm vì, qua Lệ Thủy, cảm tình của tôi với cụ Diệm rất sâu nặng,
không như một vài bạn JECU khác. Tôi lờ mờ hiểu rằng thế nào bàn tay
lông lá của người Mỹ cũng đã nhúng vào nội bộ Việt Nam. Nhưng tôi tin
tưởng và cầu mong cụ Diệm sẽ vượt qua hết như lần đảo chánh hụt 1960.
Thời gian sau đó, nhiều biến cố xảy ra, dồn dập. Lựu đạn nổ tại đài phát
thanh Huế. Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu. Nữ sinh viên Quách Thị
Trang biểu tình bị cảnh sát bắn chết tại chợ Bùng Binh Sài Gòn. Rồi đảo
chánh. Ngày 2/11/1963, nghe tin hai anh em cụ Diệm bị giết, ba tôi chảy
nước mắt và trong giờ kinh tối ba bắt cả nhà đọc thêm kinh cầu hồn cho
hai cụ. Còn tôi tự nhiên thấy buồn vô hạn, suốt mấy bữa, mặc dù chưa hề
lãnh được một tí ơn mưa móc nào từ chế độ.
Lúc
ấy Lệ Thủy đang ở ngoại quốc với mẹ trong chuyến công du giải độc. Liền
sau đảo chánh, các phản tướng chia nhau tiền thưởng của CIA, nhảy đầm
thả giàn, phá bỏ các ấp chiến lược. Báo chí, sách vở (của anh chàng
Hoàng Trọng Miên nào đó chẳng hạn) mở chiến dịch bôi nhọ gia đình họ
Ngô, và bà Nhu, Lệ Thủy cũng bị dính miểng. Nào là bà Nhu có một chiếc
ghế khích dục, trong dinh Độc lập, nhưng sự thật đó chỉ là chiếc ghế làm
răng thường thấy trong phòng nha sĩ. Nào là ông Nhu bất lực. Nào là bà
Nhu tư tình với cụ Diệm, với ông tướng này, ông tướng nọ. Nào là Lệ Thủy
có nhiều bồ, kể cả một anh người Nhật, Lệ Thủy thất tình, học Văn Khoa,
chỉ ghi danh, không đến lớp mà cũng có bằng, v.v… Tôi đọc và thấy buồn
nôn. Vô lý quá, vậy mà dân chúng ít học hoặc quá khích vẫn tin, thế mới
kỳ lạ. Thì cũng giống như dân quê miền Bắc mười mấy năm sau, đã ném đá
vào sĩ quan cải tạo chúng tôi một cách thật tình, nguyền rủa chúng tôi
là “quân mọi rợ giết người, ăn thịt con nít, hiếp dâm phụ nữ.”
Công việc và đời quân ngũ làm tôi quên Ngô Đình Lệ Thủy. Kỷ niệm với JECU những ngày có cô cũng dần phai theo thời gian.
2.
Cho đến đầu năm 1967. Bốn năm sau. Tôi được tăng phái cho Tiểu đoàn
4/44 Bộ Binh trong chiến dịch Bình Định Nông Thôn tại quận Thiện Giáo
(Ma Lâm cũ), nổi tiếng nguy hiểm, thuộc tỉnh Phan Thiết. Ngày đi hành
quân tìm địch, qua các thôn xóm, đêm đóng quân ven rừng, mắc võng giữa
hai thân cây nằm nghe tiếng đại bác ầm ì xa xa, nhìn hỏa châu từng hồi
loé sáng trên ngọn Tà Dôm, mà thương cho kiếp lính tráng nay đây mai đó,
trực diện cái chết cận kề. Một buổi trưa, tôi đang nói chuyện với ông
Đại úy Tiểu đoàn trưởng, một viên đạn rít ngang nón sắt, cách đầu tôi
một đường tơ, xuyên ngay cổ binh nhất H., mang máy truyền tin PRC 25
đứng gần đó, làm anh gục chết tại chỗ. Tên du kích bắn sẻ vụt bỏ chạy,
bị lính Tiểu đoàn rượt theo và lãnh trọn một tràng carbine, phơi thây.
Một người lính, bà con của H., giận dữ chửi thề và muốn
xẻo tai tên này để trả thù, tôi phải khuyên ngăn mãi, mới thôi. Cảnh
tượng quá thảm cho bên này, bên kia. Tôi nghĩ thêm, những người lính
chiến miền Nam, hơn ai hết, là những người thực sự yêu chuộng hòa bình,
và vì yêu chuộng hoà bình họ phải hy sinh mạng sống đánh đuổi giặc xâm
lược từ Miền Bắc. Nếu phải chống đối chiến tranh thì họ mới là những
người có quyền lên tiếng trước tiên, chứ không phải những anh làm thơ,
làm nhạc ấm ớ ở hậu phương, sợ chết, trốn quân dịch, núp bóng các ông sĩ
quan văn phòng cao cấp mê văn nghệ, để mà gào thét ngưng chém giết, nối
vòng tay lớn, tay nhỏ. Rồi tại sao lại phản chiến một chiều? Tại sao
không ra Bắc kêu gọi Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp ngưng gây hấn và tấn
công miền Nam? Tại sao chỉ to mồm lên án miền Nam là nơi đã cho họ cơm
ăn, áo mặc, tự do sáng tác, tự do phản bội? Bao nhiêu câu hỏi cứ lẫn
quẫn trong tôi, cho mãi đến hôm nay, khi những dòng nhạc dòng thơ góp
phần làm mất nước ấy vẫn còn được yêu chuộng, mê man, và các tác giả
được thổi bằng ống đu đủ lên tận mây xanh.
Trở
lại với Ngô Đình Lệ Thủy. Một ngày cuối tuần và cuối tháng 4, 1967, tôi
cùng với vài sĩ quan bạn được phép lên Phan Thiết, cách Thiện Giáo
khoảng mười lăm cây số, để nghỉ xả hơi qua đêm, và nhậu bia. Tại quán
bánh căng “còn ướt sền sệt”, chúng tôi gọi mỗi người hai tô, mỗi tô hai
mươi lăm cái, đổ đầy nước mắm, ăn cho bõ những bữa cơm sấy, đồ hộp ngán
đến tận óc. Tôi mua một tờ nhật báo, và giật mình đọc tin Lệ Thủy đã chết trong một tai nạn xe hơi tại Pháp, chính xác tại Longjumeau, vùng Essonne, ngoại ô Paris. Chết tại chỗ. Lúc ấy cô vừa hai mươi hai tuổi.
Bài báo kể, ban đêm, cô lái xe nhỏ và bị một camion ngược chiều húc
thẳng, đầu xe của cô nát bấy. Sau này, đọc trên tờ Time, số Friday April
21, 1967, thấy cũng đăng đúng tin ấy.
Mặc
dầu tình cảm của tôi đối với cô, và ngược lại, chưa bao giờ thắm thiết,
gắn bó, đong đầy, đủ để những giọt lệ trào dâng chan chứa, như trong
mắt nàng kỹ nữ Tầm Dương làm đẫm vạt áo xanh của người Giang Châu Tư Mã
thuở trước, tôi vẫn thấy bàng hoàng, xao xuyến. Tôi bỏ dở bữa nhậu đã
bao lâu chờ đợi, ngồi thừ người, nghĩ đến những kỷ niệm thời sinh viên,
JECU, những buổi họp, những bài thơ tình lẩm cẩm và lời phê bình nặng ký
của cô, một trăm đồng “maman cho”. Đêm về, qua cửa sổ khách sạn, tôi
nhìn trời xanh thẳm không gợn mây và nửa mảnh trăng mới mọc vàng úa trên
ngọn núi Tà Dôm mà nhớ câu thơ của Mạc Đĩnh Chi khóc nàng công chúa
Tàu:
Y! Vân tán, tuyết tiêu / Hoa tàn, nguyệt khuyết
(Ôi! Mây tản, tuyết tan / Hoa tàn, trăng khuyết).
3.
Hai tháng sau, tôi được lệnh thuyên chuyển đi Qui Nhơn. Tôi đáp chuyến
bay Air VN đến Sài Gòn trước, dự trù ở chơi vài hôm, rồi về Nha Trang
nghỉ phép một tuần, trước khi ra Qui Nhơn đáo nhậm đơn vị mới. Hành
trang là túi ba lô và cây carbine đeo vai, cây Colt bên hông, và bộ quân
phục mặc trên người. Trong chuyến bay có một số sĩ quan trẻ từ các đơn
vị tác chiến về, cũng trang bị tận răng như tôi, báo hại các cô tiếp
viên phải gom hết súng lại, đem cất đi một nơi phía sau phi cơ. Tại phi
trường Tân Sơn Nhất, đang đứng chờ taxi, tôi bất ngờ thấy Thái Tuyết Lê
cũng từ chuyến Air France xuống. Tôi hỏi dồn:
- Tuyết Lê phải không? Toa về từ Pháp? Không ai đón sao?
- Không, moa không báo trước ngày giờ, muốn dành ngạc nhiên cho gia đình.
Tuyết
Lê, người Huế, cựu JECU mặc dầu ngoài Công giáo, là em bà chủ tiệm kem
Phi Điệp, chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo, du học Pháp từ năm thứ ba Văn
Khoa. Tay bắt mặt mừng, tôi mời Tuyết Lê đi chung chuyến taxi về thành
phố. Trong xe, Tuyết Lê nhìn tôi đăm đăm, tấm tắc khen, “toa trông đen,
nhưng có vẻ nam nhi, hùng dũng, khác với hồi còn là thư sinh.” “Dĩ
nhiên, tôi vênh mặt đáp, bắt chước nghệ sĩ Hùng Cường, lính mà em!” Cả
hai cùng cười vui.
Câu
chuyện xoay quanh bạn cũ bên đó, bên này, và tôi được biết Irène Phụng
Tiên học ở Grenoble, quê hương của Stendhal, tác giả mà tôi yêu mến từ
thời còn học tại Jean-Jacques Rousseau. Rồi cái chết của Ngô Đình Lệ
Thủy. Đổi sang tiếng Pháp, để tài xế taxi không nghe hiểu, Tuyết Lê kể:
-
Tại Paris, tụi moa có đi viếng xác Lệ Thủy và dự lễ cầu hồn và đưa nó
ra nghĩa trang. Đầu Lệ Thủy bị kính trước cắt gần lìa cổ. Khi liệm, được
khâu lại và quàng bằng chiếc khăn lụa màu thiên thanh, trông mặt nó đẹp
quá, thanh thản như một thiên thần. Bà Nhu từ Rome bay sang, ôm xác con
mà khóc ngất, khiến tụi moa cũng khóc theo. Chiếc xe bị nạn là chiếc
Peugeot còn mới do Tổng giám mục Ngô Đình Thục mua cho Lệ Thủy. Tài xế
xe poids lourd không việc gì cả, bị thẩm vấn qua loa, rồi cho về.
Tôi hỏi:
- Lệ Thủy học môn gì ở Paris?
- Trường Luật.
- Tụi toa có gặp Thủy lần nào trước đó?
- Thỉnh thoảng. Thủy vẫn gentille (dễ thương) như trước kia.
Tôi bỗng thở dài:
- Tội nghiệp nó quá! Đúng là hồng nhan bạc phận!
Xe ngừng trước tiệm kem Phi Điệp. Tuyết Lê giành trả tiền, mời tôi vào chơi, ăn kem.
Nhưng
tôi thoái thác, “thôi, toa mới về, cần gặp gia đình, để dịp khác”, rồi
vác túi ba lô và cây súng lững thững bước đi, gọi xích lô chở về nhà ông
bác họ ở đường Nguyễn Trãi.
4.
Nếu còn sống, năm nay Lệ Thủy cũng đã 66 tuổi. Quá khứ xa rồi, nhưng
khi ngồi viết bài này, tôi vẫn thấy lòng bồi hồi, bởi kỷ niệm. Tôi vẫn
nhớ lời cô “la rầy” tôi một lần về những bài thơ tình làm tuyệt vọng. Và
hôm nay tôi sửa lại câu thơ ngày đó:
C’est bien toi que je regrette
Ce n’est pas le rêve par toi brisé
(Chính em mà anh tiếc nuối
Không phải giấc mơ vì em vỡ tan)
Nhưng
trong một nghĩa nào, vì mang bệnh kinh niên lãng mạn, tôi nghĩ rằng mỹ
nhân Ngô Đình Lệ Thủy mất sớm như vậy cũng hay. Để không bao giờ cho thế
gian thấy tóc mình bạc màu.
Portland, 1/2011